Cây dược liệu cây Lá ngón, Ngón vàng, thuốc rút ruột - Gelsemium elegans (Gardn. et. Champ) Benth

Theo Đông Y Lá ngón Vị đắng, cay tính nóng rất độc, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu thũng, bạt độc, giảm đau, sát trùng, chống ngứa. Cây rất độc, chỉ cần ăn 3 lá là đủ chết người. Có thể dùng mỡ lợn hoặc dầu lạc để uống hoặc dùng dịch chiết của Rau má và Rau muống để làm hồi tỉnh lại.

1. Cây Lá ngón, Ngón vàng, thuốc rút ruột - Gelsemium elegans (Gardn. et. Champ) Benth, thuộc họ Mã tiền - Loganiaceae.

Cây lá ngón, tên khoa học: Gelsemium elegans, còn gọi là cây rút ruột, co ngón, hồ mạn trường, hồ mạn đằng, hoàng đằng, đoạn trường thảo, câu vẫn v.v. trước đây được phân loại trong họ Mã tiền (Loganiaceae), nhưng từ năm 1994 đến nay được cho là thuộc họ mới là họ Hoàng đằng (Gelsemiaceae). Tuy nhiên, cần phân biệt với một loài cũng được gọi là "lá ngón" nhưng ăn được ở một số vùng dân tộc thiểu số như Mường So,...

Hình ảnh Hoa cây lá ngón, tên khoa học: Gelsemium elegans

2. Thông tin mô tả chi tiết Dược liệu Lá Ngón

Mô tả: Cây nhỡ mọc leo, cành nhẵn, có rãnh dọc. Lá mọc đối, hình trứng thuôn dài hoặc gần hình mác, mép nguyên mặt nhẵn bóng, lá kèm không rõ. Cụm hoa hình Chuỳ nách lá, dạng ngù. Hoa màu vàng dài, 5 lá đài rời, tràng gồm 5 cánh hoa nhẵn, dính thành ống hình phễu; nhị 5 dính ở phía dưới ống tràng, bầu nhẵn, vòi dạng sợi, đầu nhọn 4 thuỳ hình sợi. Quả nang có vỏ cứng, dai; hạt có rìa mỏm bao quanh, mép cắt khía.

Hoa tháng 10-12, quả tháng 12-3.

Bộ phận dùng: Rễ, lá và toàn cây - Radix, Folium et Herba Gelsemii.

Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang ở các vùng núi cao ở Hà Giang, Tuyên Giang, Lai Châu, Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hoà Bình đến các tỉnh Tây Nguyên. Thu hái rễ quanh năm thường dùng tươi, hoặc phơi khô.

Thành phần hoá học: Lá có gelsemin và kuminidin có tinh thể. Rễ chứa kunin; chất này cũng có trong quả và hạt, toàn thân có semperverin.

Tính vị, tác dụng: Vị đắng, cay tính nóng rất độc, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu thũng, bạt độc, giảm đau, sát trùng, chống ngứa.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: 

Ðược dùng trị 

1. Eczema nấm ở chân, ở thân. 

2. Ðòn ngã tổn thương, đụng giập; 

3. Trĩ, trang nhạc;

4. Ðinh nhọt và viêm mủ da; 

5. Phong hủi. 

Giã cây tươi đắp ngoài, hoặc nấu nước rửa ngoài. 

Không được dùng uống trong. 

Còn dùng diệt giòi bọ, sát trùng.

Ghi chú: Cây rất độc, chỉ cần ăn 3 lá là đủ chết người. 

Thường khi bị ngộ độc thì có cảm giác mệt mỏi, chóng mặt, đau dữ dội ở họng và dạ dày, nhỏ nước dãi, dãn đồng tử dãn cơ, tim đập yếu và hô hấp kém.

Có thể dùng mỡ lợn hoặc dầu lạc để uống hoặc dùng dịch chiết của Rau má và Rau muống để làm hồi tỉnh lại.