Cây dược liệu cây Ngũ gia hương - Acanthopanax trifoliatus (L.) Merr

Theo Đông Y Vỏ cũng có tính vị, tác dụng như vỏ Ngũ gia nhỏ. Rễ lá có vị đắng và cay, tính mát, có mùi thơm. Vỏ được coi như vị thuốc bổ. Nước sắc và rượu chế từ vỏ cây được dùng phổ biến làm thuốc bổ nâng cao sức của các cơ, tăng trí nhớ, ngoài ra còn dùng làm thuốc chữa bệnh phụ khoa, chữa đàn ông liệt dương, chữa các bệnh dạ dày, nhất là nó còn có hiệu lực để chữa bệnh chậm lớn của trẻ em. Vỏ ngâm rượu cũng dùng chữa bệnh tê thấp...

1. Cây Ngũ gia hương - Acanthopanax trifoliatus (L.) Merr., thuộc họ Nhân sâm - Araliaceae.

Cây Ngũ gia hương có tên khoa học: Acanthopanax trifoliatus

2. Thông tin mô tả chi tiết Dược liệu Ngũ gia hương

Mô tả: Cây bụi nhỏ, cao 1-7m, cành vươn dài, có gai, sống dựa. Lá kép mọc so le, thường gồm 3, có khi 4-5 lá chét, dài 2-8cm, rộng 1,5 tới 4cm, mép lá khía răng, đôi khi có gai ở gân giữa, cuống lá có bẹ và gai. Cụm hoa phân nhánh gồm 3-7(10) tán mọc ở ngọn nhánh. Hoa có 5 lá đài, 5 cánh hoa màu vàng lục, nhị 5, bầu 2 ô. Quả hình cầu, hơi dẹt, khi chín màu đen, chứa hai hạt.

Hoa tháng 8-9, quả tháng 11-12.

Bộ phận dùng: Vỏ (rễ, thân) - Cortex Acanthopanacis Trifoliali, thường gọi là Ngũ gia bì. Rễ, lá, cành nhỏ cũng được dùng, thường gọi là Bạch lặc.

Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Ấn Độ, các nước Đông Dương, Trung Quốc, Nhật Bản tới Philippin. Ở nước ta, cây mọc hoang ở núi cao trong các rừng thưa ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Lai Châu, Lào Cai, Vĩnh Phú, Hoà Bình, Hà Tây, Ninh Bình, Nam Hà. Thu hoạch vỏ rễ, vỏ thân vào mùa hạ, mùa thu. Ủ cho thơm, phơi trong bóng râm, chỗ thoáng gió, tới khô. Rễ thu hái quanh năm, rửa sạch phơi khô. Lá thu hái vào mùa hè, mùa thu, dùng tươi.

Thành phần hoá học: Vỏ cây chứa saponin triterpen, acid oleanolic, acid kaurenoic.

Tính vị, tác dụng: Vỏ cũng có tính vị, tác dụng như vỏ Ngũ gia nhỏ. Rễ lá có vị đắng và cay, tính mát, có mùi thơm; có tác dụng hoạt huyết hành khí, tán ứ chỉ thống, khử phong thanh nhiệt; có sách ghi là khư phong trừ thấp, thư cân hoạt huyết, tiêu thũng giải độc.

Công dụng:

- Vỏ được coi như vị thuốc bổ. Nước sắc và rượu chế từ vỏ cây được dùng phổ biến làm thuốc bổ nâng cao sức của các cơ, tăng trí nhớ, ngoài ra còn dùng làm thuốc chữa bệnh phụ khoa, chữa đàn ông liệt dương, chữa các bệnh dạ dày, nhất là nó còn có hiệu lực để chữa bệnh chậm lớn của trẻ em. Vỏ ngâm rượu cũng dùng chữa bệnh tê thấp.

- Rễ và cành dùng chữa: 

1. Cảm mạo sốt cao, ho đau ngực; 

2. Đau lưng, phong thấp đau nhức khớp; 

3. Đau dạ dày, viêm ruột, đau bụng ỉa chảy; 

4. Vàng da, viêm túi mật; 

5. Sỏi niệu đạo, bạch đới; 

6. Gẫy xương, viêm tuyến vú.

- Dây 30-60g, sắc uống. Dùng ngoài chữa đòn ngã, eczema, mụn nhọt và viêm mủ da, giã rễ tươi và lá đắp ngoài hoặc nấu nước rửa, tắm.

- Cành nhỏ nấu lên rửa, tắm chữa ngứa, ghẻ. Rễ và lá của nó cùng với hoa Cúc trắng giã nhỏ đắp mụn nhọt và nứt kẽ chân cũng có công hiệu.

3. Tham khảo thêm hình ảnh

Ngũ gia bì hương – Acanthopanax gracilistylus  W.W. Smith: (1) Tỉnh Hà Giang: huyện Đồng Văn (thị trấn Phó Bảng, xã Phố Là, Sùng Là), huyện Mèo Vạc (xã Mèo Vạc), huyện Quản Bạ (xã Quyết Tiến), (2) Tỉnh Lào Cai: huyện Sa Pa (xã Hầu Thào), huyện Bắc Hà (thị trấn Bắc Hà). Như vậy, có thể khẳng định, ở Việt Nam ngũ gia bì hương mới chỉ thấy ở vùng núi cao giáp biên giới Trung Quốc. Các điểm phân bố đã gặp là được trồng và sau trở nên hoang dại hóa.

Hoa có 5 lá đài, 5 cánh hoa màu vàng lục, nhị 5, bầu 2 ô.

4. Tham khảo thêm hình ảnh

Quả hình cầu, hơi dẹt, khi chín màu đen, chứa hai hạt.

5. Ngũ gia hương - Acanthopanax trifoliatus Ảnh cây tại Việt Nam

Ngũ gia bì hương tại Việt Nam có có đến 5 lá

6. Ngũ gia hương - Acanthopanax trifoliatus Ảnh cây tại Việt Nam