1. Cây Chua me đất hoa vàng, Chua me ba chìa - Oxalis corniculata L., thuộc họ Chua me đất - Oxalidaceae.
Chua me đất hoa vàng hay chua me ba chìa, chua me, rau chua me, me đất nhỏ (Tên khoa học: Oxalis corniculata) là cây thuộc họ Chua me đất. Lá cây được chia thành ba thùy giống như cỏ ba lá. Một số giống cây có lá màu xanh, trong khi một số giống khác như Oxalis corniculata var. atropurpurea lại có màu tím. Quả hình nón, nhỏ, dài từ 1 cm đến 2 cm, chứa những hạt dài 1 mm.
Hình ảnh lá cây, hoa và quả
2. Thông tin mô tả chi tiết Dược liệu
Mô tả: Cây thảo sống nhiều năm, mọc bò sát đất. Thân mảnh, thường có màu đỏ nhạt, hơi có lông. Lá có cuống dài mang 3 lá chét mỏng hình tim. Hoa mọc thành tán gồm 2-3 hoa, có khi 4 hoa màu vàng. Quả nang thuôn dài, khi chín mở bằng 5 van, tung hạt đi xa. Hạt hình trứng, màu nâu thẫm, dẹt, có bướu.
Mùa hoa tháng 3-7.
Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Oxalis Corniculatae.
Nơi sống và thu hái: Cây của châu Âu, châu Á, phổ biến khắp nước ta. Nay gặp mọc khắp nơi, chỗ đất ẩm mát, có đủ ánh sáng trong các vườn, ở bờ ruộng và các bãi đất hoang. Cây tươi dùng làm rau ăn và làm thuốc, ít khi phơi khô. Thu hái cây tốt nhất vào tháng 6-7, rửa sạch, phơi trong râm.
Thành phần hoá học: Trong lá và thân Chua me đất có acid oxalic, oxalat, kali. Người ta đã tính được theo mg%: P 125; caroten 8,41; B1 0,25; B2 0,31; vitamin C 48.
Tính vị, tác dụng: Chua me đất có vị chua, tính mát, không độc, có tác dụng giải nhiệt, kháng sinh, tiêu viêm, làm dịu, làm hạ huyết áp và lợi tiêu hoá.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Thường được dùng trị
1. Sổ mũi, sốt, ho viêm họng;
2. Viêm gan, viêm ruột, lỵ;
3. Bệnh đường tiết niệu và sỏi;
4. Suy nhược thần kinh;
5. Huyết áp cao.
Ở Trung Quốc và Ấn Độ, và cả ở Philippin, người ta dùng các bộ phận của cây làm thuốc chống bệnh scorbut.
Dùng ngoài trị chấn thương bầm giập, rắn cắn, bệnh ngoài da, nấm da chân, nhọt độc sưng tấy, eczema và trị bỏng.
Cách dùng: Người ta thường dùng các ngọn non để sống hay nấu canh chua, luộc với rau Muống. Dùng 30-50g lá tươi hoặc 5-10g cây khô sắc nước uống. Dùng ngoài giã tươi hoặc hơ nóng đắp để chữa vết thương, hoặc lấy nước uống.
Ðơn thuốc: Ở Trung Quốc, người ta sử dụng một số đơn thuốc có Chua me đất.
1. Huyết áp cao, viêm gan cấp tính và mạn tính, dùng Chua me đất 30g Bạch đầu ông 15g, Hạ khô thảo 10g, Cúc hoa vàng 15g sắc uống.
2. Viêm đường tiết niệu, dùng Chua me đất 30g, Bòng bong 15g, Kim tiền thảo 15g, Dây vác Nhật 15g, sắc uống.
3. Suy nhược thần kinh: Chua me đất 30g, lá Thông đuôi ngựa 30g sắc uống.
Chúng ta cũng còn một số công thức khác để chữa:
1. Sốt cao, trằn trọc, khát nước; dùng Chua me đất một nắm giã nát, chế nước vào vắt lấy nước cốt uống.
2. Bị thương bong gân sưng đau; giã Chua me đất chưng nước xoa bóp.
3. Ho: Chua me đất 40g, Rau má 40g, Lá xương sông 20g, Cỏ gà 20g, các vị dùng tươi, rửa sạch giã nhỏ, vắt lấy nước, đường 1 thìa, tất cả đun sôi, chia 3 lần uống trong ngày.
4. Viêm họng: Chua me đất 50g, muối 2g, hai thứ nhai nuốt từ từ.
Ghi chú: Toàn cây Chua me đất chứa nhiều acid oxalic, do dùng dài ngày cần thận trọng vì có thể gây bệnh sỏi thận cho nên người đã có sỏi thận không nên ăn.
3. Hình ảnh tham khảo thêm
Chua me đất hoa vàng là loài chưa rõ nguồn gốc, mọc dại trong vườn và trên đồng ruộng, ở nơi ẩm. Cây này có thể có nguồn gốc từ châu Âu, hiện phân bố ở khu vực Đông Nam Á
Lưu ý: Trong thân và lá chua me đất có axit oxalic và nhất là oxalat kali với hàm lượng cao có thể tạo ra sỏi oxalat trong bàng quang mà sinh bệnh sỏi. Do đó, những người đã bị sỏi thận không nên dùng. Cần thận trọng với phụ nữ có thai.
Cây mọc hoang khắp nơi, thường ở chỗ đất ẩm mát trong vườn, ở bờ ruộng và các bãi đất hoang. Nhân dân thường dùng cây tươi làm rau ăn và làm thuốc, ít khi phơi khô.