Cây dược liệu cây Lai - Aleurites moluccana (L) Willd

Theo Đông Y, dược liệu Lai Người ta dùng hạt để ăn sau khi rang và lấy dầu ăn; còn được dùng trong công nghiệp xà phòng, chế dầu nhờn, thắp sáng, pha sơn, véc ni. Khô dầu có 50% protein, khử độc làm thức ăn chăn nuôi.

Thông tin mô tả chi tiết cây dược liệu Lai

Lai - Aleurites moluccana (L) Willd, thuộc họ Thầu dầu - Euphorbiaceae.

Mô tả: Cây to cao tới 15m, các cành con có góc, có lông hình sao ngắn. Lá nhóm họp ở đỉnh cành, hình bầu dục, nguyên hay chia làm 3-5 thuỳ, đầu lá nhọn, mặt trên màu lục bóng, mặt dưới trăng trắng; ở gốc lá có hai tuyến. Hoa đực và hoa cái cùng gốc, mọc thành chùm màu trắng. Quả hạch, hình bầu dục ngang có 1-2 hạt hình trứng nhăn nheo, vỏ hạt màu đen.

Ra hoa tháng 4-7, quả tháng 9-11.

Bộ phận dùng: Hạt và dầu - Semen et Oleum Aleuritis.

Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Ấn Ðộ, Nam Trung Quốc, Thái Lan, các nước Ðông Dương, Malaixia, Philippin, Ôxtrâylia. Ở nước ta, cây mọc hoang và cũng được trồng ở các tỉnh miền núi và trung du từ Lào Cai, Hà Giang, Bắc Thái tới Thừa Thiên-Huế. Gieo trồng bằng hạt, sau 5-6 năm, cây ra hoa quả, mỗi cây có thể cho tới 2000kg quả mỗi năm.

Thành phần hoá học: Nhân hạt chứa khoảng 51,67-62,25% dầu nửa khô hay không mau khô, thành phần chủ yếu gồm các acid olestearic, linoleic, oleic,

palmitic, stearic và glycerin. Vỏ quả chứa tinh dầu, khoảng 0,3%.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Người ta dùng hạt để ăn sau khi rang và lấy dầu ăn; còn được dùng trong công nghiệp xà phòng, chế dầu nhờn, thắp sáng, pha sơn, véc ni. Khô dầu có 50% protein, khử độc làm thức ăn chăn nuôi.

ở Ấn Ðộ và Philippin, dầu hạt cũng được dùng làm thuốc xổ thay thế dầu Thầu dầu.

ở Inđônêxia, dầu được dùng chữa bệnh lỵ, ỉa chảy, bệnh spru, bệnh về tóc các tuyến.