Chữa bệnh bằng cây tầm xuân

Trong y học cổ truyền phương Đông, tầm xuân là một vị thuốc khá độc đáo. Nó có nhiều tên khác nhau như thích hoa, bạch tàn hoa, thích mi, ngưu cúc, tường mi, thấp tỷ muội, dã tường vi, hòa thượng đầu...

Cây Tầm xuân, tên khoa học: Rosa multiflora, là một loài hoa hồng leo có nguồn gốc châu Âu, Tây Bắc Phi và Tây Á.

Tầm xuân mọc thành bụi, lá kép lông chim, thân nhiều gai, hoa 5 cánh nhỏ bé nhưng khá đẹp với nhiều màu sắc khác nhau như hồng, đỏ, trắng, vàng...

Trong sách bản thảo cương mục, nhà dược học vĩ đại Lý Thời Trần đã bàn đến tính vị, công dụng chữa bệnh của tầm xuân và cho rằng loại hoa có màu trắng là tốt hơn cả. Dân gian thường thu hái hoa, quả, cành và rễ tươi hoặc khô để làm thuốc. Tùy theo từng bộ phận của tầm xuân mà tác dụng chữa bệnh cũng có những đặc điểm khác nhau.

Hoa tầm xuân: Thường được thu hái vào mùa xuân và mùa hạ, dùng để chữa các chứng bệnh như:

Cảm nắng, cảm nóng và mùa hạ: Có các triệu chứng tức ngực, buồn nôn và nôn, có thể có nôn ra máu, môi khô miệng khát, chán ăn, mệt mỏi. Dùng hoa tầm xuân 3 - 9g sắc uống hoặc hoa tầm xuân 5g, thiên hoa phấn 10g, sinh thạch cao 30g, mạch môn 15g, sắc uống hoặc hoa tầm xuân 10g và hoa đậu ván trắng 10g, hãm với nước sôi, chế thêm một chút đường phèn, uống thay trà.

Nôn ra máu và chảy máu cam: Dùng hoa tầm xuân 6g, bạch cập 15g và rễ cỏ tranh 30g, sắc uống.

Ngực tật (sốt rét): Dùng hoa tầm xuân sắc uống thay trà.

U tuyến giáp: Dùng hoa tâm xuân 5g, hoa hậu phác 5g, hoa chỉ xác 5g và hoa hồng 5g, sắc uống.

Tiểu đường và viêm loét niêm mạc miệng mạn tính: Dùng sương đọng trên hoa tầm xuân vào buổi sớm 30ml pha chút nước ấm uống hàng ngày.

Lá tầm xuân: Được thu hái quanh năm, có tác dụng sinh cơ và làm liền nhanh vết thương.

Ung nhọt làm mủ chưa loét: Dùng lá tầm xuân sấy khô tán bột, trộn với mật ong và giấm đắp lên tổn thương.

Viêm loét chi dưới: Dùng lá tầm xuân không kể liều lượng nấu nước rửa vết thương.

Nhọt độc sưng nề nhiều: Dùng lá và cành non tầm xuân rửa sạch, giã nát với một chút muối ăn rồi đắp lên tổn thương.

Rễ tầm xuân: Vị đắng hơi sáp, tính bình, có công dụng thanh nhiệt lợi thấp, trừ phong, hoạt huyết và giải độc, được dùng để chữa chứng bệnh.

Liệt mặt và di chứng liệt nửa người do tăng huyết áp: Dùng rễ tầm xuân 15 - 30g sắc uống.

Chảy máu com mạn tính: Dùng vỏ rễ tầm xuân 60g hầm với thịt vịt già ăn.

Ghẻ về mùa hè: Dùng rễ tầm xuân tươi sắc uống thay trà.

Đau răng và viêm loét miệng: Dùng rễ tầm xuân sắc uống hoặc ngậm.

Viêm khớp, liệt bại nửa người, kinh nguyệt không đều, khí hư và tiểu tiện không tự chủ: Dùng rễ tâm xuân 15 - 30g sắc uống.

Hoàng đản (vàng da do nhiều nguyên nhân): Dùng rễ tầm xuân 15- 24g hầm với 60g thịt lợn nạc, chế thêm một chút rượu vang, chia ăn vài lần trong ngày.

Vết thương chảy máu: Dùng rễ tầm xuân lượng vừa đủ, sấy khô tán bột rắc vào tổn thương, cũng có thể trộn với dầu vừng để đắp.

Rong huyết: Dùng rễ tầm xuân 30g, ngải cứu già đốt tồn tính 10g, cỏ nhọ nồi 30g, tiên hạc thảo 30g, sắc uống hằng ngày.

Trẻ em đái dầm, người già đi tiểu đêm nhiều lần có thể chữa bằng cách dùng rễ tầm xuân 30g sắc uống, hoặc hầm với thịt lợn ăn.

Qủa tầm xuân: Vị chua, tính ấm, thu hái vào lúc chín, sấy hoặc phơi khô làm thuốc, có công dụng lợi tiểu thanh nhiệt, hoạt huyết giải độc.

Phù do viêm thận: Dùng quả tầm xuân 3 - 6g, hồng táo 3 quả sắc uống hoặc quả tầm xuân 20g, đại hoàng 3g, sắc chia uống 3 lần trong ngày.

Tiểu tiện khó khăn: Dùng quả tầm xuân 10g, mã đề 30g và biển súc 30g, sắc uống.

Đau bụng khi hành kinh: Dùng quả tầm xuân 120g sắc lấy nước, hòa thêm một chút đường và rượu vang uống ấm.

Táo bón: Dùng quả tầm xuân 10g, đại hoàng 3g, sắc uống.

Xem thêm Cây tầm xuân tại: Cây dược liệu cây Hồng nhiều hoa - Rosa multiflora Thunb

Hình ảnh bụi cây hoa Tầm xuân trắng

Tầm xuân hoa trắng