Cây dược liệu cây Sói rừng, Sói nhẵn - Sarcandra glabra

Theo Đông y, sói rừng có vị đắng, cay, tính hơi ấm, hơi có độc, có tác dụng kháng khuẩn tiêu viêm, khu phong trừ thấp, hoạt huyết chỉ thống. Chủ trị viêm phổi, viêm phế quản, viêm ruột thừa cấp tính, viêm dạ dày ruột cấp tính, lỵ nhiễm khuẩn, phong thấp đau nhức, đòn ngã tổn thương, gãy xương,..

1. Cây Sói rừng, Sói nhẵn - Sarcandra glabra (Thunb.) Nakai, thuộc họ Hoa sói - Chloranthaceae.

Sói rừng, Sói láng, Sói nhẵn, Thảo san hô (cao shan hu, 草珊瑚), tên khoa học: Sarcandra glabra là một loại thực vật có hoa thuộc họ Hoa sói (Chloranthaceae).

2. Mô tả cây

Cây nhỏ cao 1-2m; nhánh tròn, không lông, mọc đối. Lá mọc đối, có phiến dài xoan bầu dục, dài 7-18cm, rộng 2-7cm, đầu nhọn, mép có răng nhọn, gân phụ 5 cặp; cuống ngắn 5-8mm. Bông kép, ít nhánh, nhánh ngắn; hoa nhỏ, màu trắng, không cuống; nhị 1. Quả nhỏ, đỏ gạch, mọng, gần tròn 6x4mm.

Hoa tháng 6-7, quả tháng 8-9.

3. Thông tin mô tả Công dụng, tác dụng, Dược liệu

Bộ phận dùng: Toàn cây hoặc rễ - Herba seu Radix Sarcandrae Glabrae, thường gọi là Thũng tiết phong

Nơi sống và thu hái: Loài của Trung Quốc, Triều tiên, Nhật Bản, Ấn Độ, Việt Nam và Malaixia. Cây mọc hoang ở vùng núi đất, ở bìa rừng và ven đồi ẩm nhiều nơi; Lạng Sơn, Bắc Thái, Hoà Bình, Hà Tây đến Kon Tum, Lâm Ðồng. Cũng được trồng để lấy hoa ướp trà. Thu hái toàn cây vào mùa hạ thu, dùng tươi hay phơi khô trong râm. Rễ thu hái quanh năm, rửa sạch, cắt đoạn phơi trong râm, cũng có thể dùng tươi.

Thành phần hoá học: Có tinh dầu, các este, phenol, đường, flavon, cyanogen...

Tính vị, tác dụng: Vị đắng, cay, tính hơi ấm, cũng có độc; có tác dụng hoạt huyết giảm đau, khư phong trừ thấp, tiêu viêm giải độc.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Hương cảng (Trung Quốc) cây được dùng chữa: 1. Ung thư tuỵ, dạ dày, trực tràng, gan, cuống họng; 2. Viêm não B truyền nhiễm; 3. Lỵ trực trùng; viêm ruột thừa cấp, bệnh nhọt; 4. Ðòn ngã tổn thương, gãy xương, thấp khớp tạng khớp, đau lưng. Ngày dùng 15-30g, đun sôi uống hay tán bột uống với rượu hoặc dùng bột phối thành tễ uống.

Ở Vân Nam (Trung Quốc) cây còn được dùng trị cảm mạo, kinh nguyệt không đều và viêm phổi.

Dân gian còn dùng rễ ngâm rượu uống chữa ngực đau tức, lá giã đắp chữa rắn cắn. Lá sắc uống trị ho lao.

Sói rừng còn gọi là "sói nhẵn", "cửu tiết trà", "thảo san hô", "quan âm trà", "tiếp cốt mộc", "cửu tiết phong", "cửu tiết lan", "sơn hồ tiêu", "cốt phong tiêu", "mãn sơn hương", "kê cốt hương", "tiếp cốt trà"..., tên khoa học là Sarcandra glabra (Thunb) Nakai, thuộc họ Hoa sói (Chloranthaceae).

5. Thông tin thêm về cây Sói rừng, Sói nhẵn - Sarcandra glabra (Thunb.): Theo BS Hoàng Tuấn Linh

Cây mọc hoang ở nhiều nơi, từ các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hoà Bình, Hà Tây (cũ) đến Kon Tum, Lâm Đồng... Hay gặp nhất ở các vùng núi đất, bìa rừng và ven đồi ẩm ướt. Một số nơi cũng trồng sói rừng để lấy hoa ướp trà.

Trong dân gian, thường dùng rễ cây này ngâm rượu uống để chữa tức ngực, đau nhức xương khớp; còn dùng toàn cây sắc uống trị cảm mạo, kinh nguyệt không đều và viêm phổi. Lá sắc uống trị ho, giã đắp chữa rắn cắn.

Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, sói rừng có tác dụng ức chế đối với tụ cầu khuẩn vàng staphylococcus aureus, trực khuẩn lỵ, trực khuẩn bacillus coli, trực khuẩn mủ xanh bacillus pyocyaneus; trực khuẩn thương hàn và phó thương hàn salmonella typhosa...

Lá có tác dụng kháng khuẩn mạnh nhất; rễ và cành tươi có tác dụng mạnh hơn rễ và cành đã khô. Đối với các loại tụ cầu khuẩn và trực khuẩn đều có tác dụng ức chế ở mức độ nhất định. Thử nghiệm đối với các bệnh nhân viêm phổi, viêm phế quản, viêm dạ dày ruột cấp tính, lỵ trực trùng... hiệu suất trung bình tới 75 – 80%.

Một số bệnh nhân, chỉ sau 1 – 2 ngày dùng thuốc, thân nhiệt khôi phục bình thường.

Liều dùng hàng ngày: Dưới dạng sắc nước uống từ 10 – 15g khô (30 – 40g tươi). Hoặc ngâm rượu. Dùng ngoài giã đắp hoặc nấu nước rửa.

Kiêng kỵ dùng với người âm hư hỏa vượng và phụ nữ có thai.

Dưới đây là cách trị bệnh từ cây sói rừng:

- Phòng cảm mạo: Dùng sói rừng 10 – 15g, mùa đông thêm tía tô 6g, mùa hè thêm kim ngân hoa 6g, sắc nước uống thay trà trong ngày.

- Chữa các chứng viêm nhiễm (có tác dụng chống viêm rất tốt): Mỗi ngày dùng 30 – 40g cành lá sói rừng tươi, sắc lấy nước, chia 3 lần uống, liên tục 2 – 3 ngày hoặc có thể kéo dài ngày hơn.   

- Chữa đau lưng: Dùng cành lá sói rừng 10 – 15g, sắc với nửa rượu nửa nước, chia ra uống trong ngày.

- Chữa đòn ngã tổn thương, gãy xương, viêm khớp xương do phong thấp: Dùng cây tươi, giã nát, sao rượu, đắp; hoặc dùng 15-30g rễ sắc với nước hoặc ngâm rượu uống.

- Chữa ngoại thương xuất huyết: Dùng cây tươi, giã nát, đắp; hoặc dùng 15-30g rễ, ngâm rượu uống.

- Chữa vết thương loét, không liền miệng: Dùng cành lá, lượng thích hợp, nấu nước rửa, ngày 1- 2 lần.

- Chữa trị bỏng: Dùng lá sói rừng, phơi khô, tán mịn, trộn thêm 2 phần dầu hạt sở hoặc dầu vừng; hàng ngày bôi vào chỗ bị bỏng.