Cây dược liệu cây Ðào - Prunus persica (L,) Batsch

Theo Đông Y, Ðào nhân có vị đắng, ngọt, tính bình, có tác dụng phá huyết, khử tích trệ, nhuận táo, hoạt trướng, lợi tiểu. Ðào nhân còn dùng chữa ho như hạt mơ. Lá Ðào thường dùng sắc nước hoặc vò ra lấy nước tắm ghẻ, sưng ngứa, chốc lở, xát và ngâm chữa đau chân. Hoa Ðào có khi cũng được dùng làm thuốc thông tiểu tiện và tẩy dùng chữa thuỷ thũng, bí đại tiện.

1. Cây Ðào - Prunus persica (L,) Batsch, thuộc họ Hoa hồng - Rosaceae.

Hoa đào trắng

2. Thông tin mô tả chi tiết Dược liệu Đào

Mô tả: Cây gỗ nhỏ, cao 8-10m, mọc lâu năm, thân nhẵn, phân cành nhiều, màu đo đỏ, chồi có lông mềm. Lá hình bầu dục ngọn giáo, dài 8-15cm, rộng 2-3cm, có mũi nhọn dài, nhăn nheo, có răng mịn, màu lục thẫm hay lục nhạt tuỳ giống; cuống lá có tuyến. Hoa hình chuông màu đo đỏ, có khi trắng, thường mọc đơn độc, có cuống ngắn. Quả hạch hình cầu, có một rãnh bên rõ, phủ lông tơ mịn, khi chín hơi có màu đỏ, vỏ quả trong hoá gỗ bao lấy hạt (nên người ta gọi là quả hạch).

Mùa hoa tháng 1-4, quả tháng 5-9.

Bộ phận dùng: Hạt - Semen Persicae, thường gọi là Ðào nhân. Lá và hoa cũng thường được dùng.

Nơi sống và thu hái: Cây của Bắc Trung Quốc và Mông Cổ, đã được trồng lâu đời ở nước ta. Ðào thích nghi với vùng khí hậu nhiệt đới núi cao các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn. Ðào cũng được trồng ở những nơi có khí hậu mát và ấm ở miền Bắc nước ta. Người ta ăn quả lấy hạch. Ðập vỡ vỏ lấy hạt, ta thường gọi là nhân, nên mới có tên là Ðào nhân, thực ra đó mới là hạt Ðào, đem phơi hoặc sây khô. Lá thu hái quanh năm, dùng tươi.

Thành phần hoá học: Phần thịt của quả Ðào chứa chất màu (carotenoid, lycopen, cryptoxanthin, zeaxanthin), 15% đường, acid hữu cơ (acid citric, acid tariric), vitamin C, acid clorogenic, ít tinh dầu. Hạt chứa 50% dầu béo, 3,5% amygdalin. 0,40-0,70%, tinh dầu, ennulsin; còn có acid prussie, cholin, acetylcholin. Lá Ðào chứa amygdalin, tanin, coumarin. Hoa chớm nở chứa glucosid, trifolin. Nhựa Ðào chứa I-arabinose, d-xylose. I-rhamnose, acid d-glucuromic.

Tính vị, tác dụng: Ðào nhân có vị đắng, ngọt, tính bình, có tác dụng phá huyết, khử tích trệ, nhuận táo, hoạt trướng, lợi tiểu. Lá Ðào có vị đắng, tính bình, có tác dụng làm tan kết tụ và giảm đau, ngoài ra còn có tác dụng lợi tiểu mạnh. Người ta đã nghiên cứu về các tác dụng ức chế sự đông máu, tác dụng chống dị ứng, tác dụng chống viêm của nhân Ðào, tác dụng diệt khuẩn, tẩy và diệt giun của lá Ðào.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ðào nhân, dùng sống trị kinh nguyệt bế tắc, sinh hòn cục, bụng dưới đầy, đau, vấp ngã ứ huyết; dùng chín thì hoạt huyết, chữa đại tiện khó đi do huyết táo, ngày dùng 6-12g dạng thuốc sắc. Ðào nhân còn dùng chữa ho như hạt mơ. Lá Ðào thường dùng sắc nước hoặc vò ra lấy nước tắm ghẻ, sưng ngứa, chốc lở, xát và ngâm chữa đau chân. Hoa Ðào có khi cũng được dùng làm thuốc thông tiểu tiện và tẩy dùng chữa thuỷ thũng, bí đại tiện. Ngày dùng 3-5g hãm uống. Nhựa Ðào dùng trị đái ra dưỡng trấp, đái đường.

Ðơn thuốc:

1. Chữa kinh nguyệt không đều, đau bụng máu: Ðào nhân, Hồng hoa, Ngưu tất, Tô mộc, Mần tưới, Nghệ vàng đều bằng nhau, mỗi vị 8-15g sắc uống.

2. Chữa bí đại tiện: Dùng Ðào nhân 40g luộc ăn vào lúc đói.

3. Chữa đại tiểu tiện không thông: Dùng lá Ðào một nắm to, giã vắt lấy nước cốt uống.

4. Chữa phù thũng: Dùng vỏ cây Ðào ngâm rượu uống.

5. Chữa đái dưỡng trấp: Dùng nhựa cây Ðào 12g tán nhỏ uống với nước sắc. Dây tơ hồng 30g làm thang.

6. Chữa đái dưỡng: Dùng nhựa Ðào 20g tán nhỏ uống với nước sắc. Ðịa cốt bì và Râu ngô mỗi vị 30g làm thang.

7. Chữa chốc lở, rôm sảy, sưng âm hộ: Giã lá Ðào tươi xoa xát.

8. Chữa phù, đại tiện táo bón: Dùng hoa Ðào 3-5g, sắc uống.

9. Chữa bại liệt nửa người: lấy 2000 nhân quả Ðào đã bóc vỏ cho vào một lít rưỡi rượu để ngâm 21 ngày, vớt nhân Ðào đem phơi khô sấy dòn, tán nhỏ mịn, trộn với nước cháo cho vừa dẻo làm viên to bằng hạt đậu đen, mỗi ngày uống 30 viên với một thìa rượu ngâm nước của nó.

10. Chữa đau vùng tim đột ngột: Lấy 30 g nhân hạt Ðào bóc vỏ giã nhừ, cho vào một chén nước đun kỹ để uống 3 lần.

Kiêng kỵ: Không có ứ trệ, đàn bà có thai không nên dùng.

3. Hình ảnh Hoa đào

Hoa đào hồng

4. Hình ảo quả đào

Hình ảnh quả đào Nhân

5. Đào nhân là nhân quả chín cây đào Prunus persica (L.) Batsch., họ hoa hồng (Rosaceae)

Đào (Tên khoa học: Prunus persica) là một loài cây được trồng để lấy quả hay hoa. Nó là một loài cây sớm rụng lá, thân gỗ nhỏ, có thể cao tới 5–10 m. Lá của nó có hình mũi mác, dài 7–15 cm và rộng 2–3 cm. Hoa nở vào đầu mùa xuân, trước khi ra lá; hoa đơn hay có đôi, đường kính 2,5–3 cm, màu hồng với 5 cánh hoa. Quả đào cùng với quả của anh đào, mận, mơ là các loại quả hạch.Quả của nó có một hạt giống to được bao bọc trong một lớp vỏ gỗ cứng (gọi là "hột"), cùi thịt màu vàng hay ánh trắng, có mùi vị thơm ngon và lớp vỏ có lông tơ mềm như nhung.

Tên gọi khoa học persica có lẽ có từ niềm tin ban đầu của người châu Âu cho rằng đào có nguồn gốc ở khu vực Ba Tư (Persia), nay là Iran. Sự đồng thuận lớn trong giới các nhà thực vật học ngày nay đã cho rằng nó có nguồn gốc từ Trung Quốc và được đưa vào Ba Tư cũng như khu vực Địa Trung Hải theo con đường tơ lụa vào khoảng thời gian ban đầu của lịch sử nhân loại, có lẽ vào khoảng thiên niên kỷ 2 TCN (Huxley và những người khác, 1992).

Các giống đào trồng được chia thành hai loại là "hột rời" và "hột dính", phụ thuộc vào việc hột có dính với cùi thịt hay không; cả hai loại này đều có cùi thịt trắng hay vàng. Quả đào với cùi thịt trắng thông thường có vị rất ngọt và ít vị chua, trong khi loại có cùi thịt màu vàng thông thường có vị chua kèm theo vị ngọt, mặc dù điều này cũng có sự dao động lớn. Cả hai màu thông thường đều có các vệt đỏ trong lớp thịt của chúng. Loại đào cùi trắng, ít chua là phổ biến nhất tại Trung Quốc, Nhật Bản và các quốc gia châu Á xung quanh, trong khi người châu Âu và Bắc Mỹ ưa thích loại có cùi thịt màu vàng và có vị chua hơn. Ở Việt Nam, hoa đào được sử dụng để chưng Tết, phổ biến ở miền Bắc.

Hạt đào

6. Hình ảnh hoa đào còn gắn bó với tình yêu và duyên nợ của trai gái nông thôn, xuất hiện trong rất nhiều ca dao dân gian Việt Nam.

"Đôi ta là nợ hay tình,

Là duyên là kiếp, đôi mình kết giao

Em như hoa mận hoa đào

Cái gì là nghĩa tương giao hỡi chàng?"

"Đôi ta như­ thể Đào Nguyên,

Khi vui nư­ớc như­ợc, khi phiền non băng.

Thâu đêm vui vẻ bóng hằng,

Chọn ngày vui tốt sinh hằng x­ướng ca.

Đào hoa lư­u thủy khác là,

Cõi trần đư­ợc mấy m­ươi mà chả chơi.

Giai nhân tài tử ở đời,

Thanh nhàn, lịch sự là ng­ười thần tiên."

"Đêm qua mận mới hỏi đào:

Vườn xuân đã có ai vào hái hoa?

Hoa đào chênh chếch nở ra.

Giơ tay muốn hái, sợ nhà có cây.

Lạ lùng anh mới tới đây.

Thấy hoa liền hái biết cây ai trồng?"

"Gặp đây anh nắm cổ tay

Anh hỏi câu này, nàng nói làm sao?

Cái gì là mận là đào

Cái gì là nghĩa tương giao ở đời"

"Mưa xuân, lác đác vườn đào

Công anh đắp đất, ngăn rào trồng hoa

Ai làm gió táp, mưa sa

Cho cây anh đổ, cho hoa anh tàn."

"Hoa đào héo nhụy anh thương

Anh mong bẻ lá, che sương cho đào."

"Lầm nghe núi cả non Bồng

Dạ cam mà chỉ ngọt bòng, ngon sao

Ra tay bẻ khóa vườn đào

Rẽ mây gạt gió, lọt vào kết duyên "

"Thân thiếp như cánh hoa đào

Đang tươi đang tốt thiếp trao cho chàng

Bây nhờ nhụy rữa hoa tàn

Vườn xuân nó kém sao chàng lại chê"