Thông tin nhận biết cây thuốc cây dược liệu Ký đầu ngựa
Tên khác: Ké; Thương nhĩ, Thượng nhĩ.
Tên khoa học: Xanthium strumarium L.
Tên đồng nghĩa: Xanthium indicum Klatt, X. sibiricum Patrin ex Widder, X. japonicum Widder., X. orientale Bl.
Họ: Cúc (Asteraceae)
Xem thêm: Cây dược liệu cây Ké đầu ngựa - Xanthium strumarium
Mẫu thu hái tại: huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, tháng 5/2010
Số hiệu mẫu: NT0510, được lưu tại Bộ môn Thực vật Khoa Dược.
Cây cỏ, mọc đứng, cao 30-60 cm hay hơn, phân nhánh nhiều. Thân non tiết diện gần tròn, có khi hơi dẹp, màu xanh lục; mặt ngoài nhiều lông thô ráp màu trắng, rất ít lông mịn, có nhiều gân dọc màu xanh lục sậm và chấm màu nâu tía; thân già tiết diện tròn, màu xanh nâu.
Lá đơn, mọc cách, không có lá kèm. Phiến lá nguyên hay có 3-(5) thùy rõ hay không rõ, dài 8-15 cm, rộng 10-14 cm, chóp hình tam giác, gốc có thể thuôn nhọn, hình tim hay hơi hình tim và thường men xuống cuống một đoạn 0,5-1,5 cm tạo thành 2 cánh nhỏ ở hai bên, đáy phiến có thể đối xứng hay không đối xứng, màu xanh lục, mặt trên sậm hơn mặt dưới, hai mặt phủ lông thô ráp màu trắng, rất ít lông mịn; mép lá có răng cưa dạng lượn sóng không đều; gân lá hình chân vịt với 3 gân gốc nổi rõ ở mặt dưới, gân bên hơi cong về phía ngọn lá. Cuống lá dài 7-12 cm, hình trụ, gốc hơi nở rộng, mặt trên hơi lõm và màu nâu đỏ, mặt dưới màu xanh lục, nhiều lông thô ráp màu trắng, rất ít lông mịn.
Cụm hoa là đầu đơn tính cùng gốc:
1. Cụm hoa đực: đầu tụ thành chùm xim ở ngọn cành, có nhiều hoa đực; đầu hình cầu, đường kính 6-8 mm, được mang bởi một cuống ngắn màu xanh lục, dài 3-7 mm, mặt ngoài phủ lông mịn màu trắng; đế cụm hoa lồi. Đầu có 2 loại lá bắc: Lá bắc ngoài 5, rời, xếp trên 1 hàng họp thành tổng bao lá bắc; phiến màu xanh lục, dài 2-3 mm, hình bầu dục thuôn nhọn, mặt ngoài phủ lông tơ. Lá bắc trong mang hoa ở nách, dài 2-3 mm, rộng 0,5-1 mm, phía dưới thuôn dài và màu trắng, phía trên gần đa giác, màu xanh lục và phủ lông tơ màu trắng. Hoa đực nhỏ. Lá đài giảm không còn dấu tích. Cánh hoa dài 2-2,5 cm, dính nhau phía dưới thành một ống hình trụ, màu trắng xanh, dài 1,5-2 mm, mặt ngoài có sọc dọc màu xanh lục; phía trên hơi loe rộng và tận cùng bằng 5 thùy hình tam giác, màu xanh lục, mặt ngoài phủ lông mịn, tiền khai van. Nhị 5, đều, đính trên đế hoa, xen kẽ cánh hoa; chỉ nhị dính nhau gần như hoàn toàn thành một ống hình sợi, màu trắng, dài bằng ống tràng, phía trên rời một đoạn rất ngắn mang bao phấn ở đỉnh; bao phấn lộ ra ngoài tràng, hình sợi thuôn cong vào trong, dài 1,5-2 mm, màu vàng, 2 ô, hướng trong, mở bằng đường nứt dọc; chung đới kéo dài trên đầu bao phấn thành một phiến hình tam giác, cong vào bên trong; hạt phấn rời, màu vàng, hình cầu có gai lấm tấm, đường kính 27-30 µm. Hiếm khi trong cụm hoa đực có 1- vài hoa lưỡng tính. Hoa lưỡng tính có đài, tràng và nhị tương tự như hoa đực nhưng ống chỉ nhị chỉ dài 1 cm, bầu nhỏ không có noãn, vòi nhụy hình sợi vươn ra khỏi ống chỉ nhị và chia làm 2 nhánh ngắn, dạng dãy hẹp, màu vàng, phủ gai thịt.
2. Cụm hoa cái: đầu ở nách lá, chỉ có 2 hoa cái; đầu hình trứng, dài 5-10 mm, được mang bởi một cuống rất ngắn màu xanh lục, mặt ngoài phủ lông mịn màu trắng; đế cụm hoa lõm thành hình chén có 2 ô, mỗi ô đựng một hoa cái. Đầu có 2 loại lá bắc: Lá bắc ngoài nhiều, rời, xếp thành 2 hàng, họp thành tổng bao lá bắc; phiến hình tam giác thuôn nhọn, dài 3-5 mm, màu xanh lục, mặt ngoài nhiều gân dọc màu sậm và phủ lông mịn. Lá bắc trong tạo thành lớp vỏ dai bao bọc hoàn toàn 2 hoa cái bên trong, mặt ngoài đầy gai hình móc câu; gai móc có phần gốc hơi phình to và dính nhau một ít, nhiều lông thô ráp dài, rất ít lông mịn, dài 2-4 mm; đỉnh vỏ bọc có 2 sừng, dài 1,5-2 mm, gốc phình to, đầu thuôn nhọn. Hoa cái nhỏ, trần, kết quả. Lá noãn 2, dính nhau thành bầu dưới 1 ô đựng 1 noãn đính đáy; bầu hình trứng thuôn nhọn, dài 1-1,5 mm, rộng 0,5-1 mm, màu trắng ngà, mặt ngoài nhẵn và có rãnh dọc; vòi nhụy 1, rất ngắn, trên chia thành 2 nhánh; đầu nhụy 2, hình sợi, màu vàng rồi nâu, dài 1-1,5 mm, vươn ra ngoài qua một lỗ nhỏ ở gốc sừng.
Quả giả hình trứng hay hình thoi, dài 2-2,5 cm, đường kính 1-1,5 cm, hai sừng trên đỉnh quả dài 5-7 mm, thường dài không đều nhau, gốc phình to, đầu thuôn nhọn; vỏ ngoài màu xám vàng hay xám nâu, cứng và dai, mặt ngoài đầy gai hình móc câu, dài 3-5 mm, gốc phình to và phủ lông mịn màu trắng; bên trong có 2 ngăn tách biệt bởi một vách dọc, mỗi ngăn đựng một quả thật; 2 quả thật không đều, một to một nhỏ hơn. Quả thật là quả bế thẳng, hình bầu dục thuôn nhọn hai đầu, dài 12-20 mm, đường kính 6 mm, dẹp, một mặt phẳng một mặt lồi, màu tím đen; vỏ quả rất mỏng, dễ bong tróc. Hạt hình thoi nhọn hai đầu, vỏ có nhiều nếp nhăn dọc; lá mầm dày, bao bọc cây mầm, rễ và chồi mầm nhỏ nằm ở phía đầu nhỏ của hạt.
Ké đầu ngựa, tên Hán-Việt là thương nhĩ (Tên khoa học: Xanthium strumarium, đồng nghĩa: X. inaequilaterum, X. canadense, X. chinense, X. glabratum), một loài thực vật trong họ Cúc (Asteraceae).
Hoa thức và Hoa đồ:
Ké đầu ngựa, tên Hán-Việt là thương nhĩ, một loài thực vật trong họ Cúc.
Tiêu bản:
Quả Ké đầu ngựa (Thương nhĩ tử) có vị ngọt nhạt, hơi đắng, tính ấm, có tác dụng tiêu độc, sát trùng, tán phong, trừ thấp. Lương y Việt Cúc ghi nhận về cây Ké đầu ngựa như sau: Thương nhĩ thảo ấm, giải phong nhiệt thấp tê, bổ não tuỷ, chữa nhức đầu viêm mũi dị ứng, bạch đới, lâm lậu. Ké đầu ngựa ngọt ôn, chữa não phong,. Nhức đầu đau mắt thấp tê rần,Phong cùi lậu ké, cùng tiêu độc, Óc nhiễm hàn, mũi chảy nước trong.
Quả Ké đầu ngựa (Thương nhĩ tử) có vị ngọt nhạt, hơi đắng, tính ấm, có tác dụng tiêu độc, sát trùng, tán phong, trừ thấp. Lương y Việt Cúc ghi nhận về cây Ké đầu ngựa như sau: Thương nhĩ thảo ấm, giải phong nhiệt thấp tê, bổ não tuỷ, chữa nhức đầu viêm mũi dị ứng, bạch đới, lâm lậu. Ké đầu ngựa ngọt ôn, chữa não phong,. Nhức đầu đau mắt thấp tê rần,Phong cùi lậu ké, cùng tiêu độc, Óc nhiễm hàn, mũi chảy nước trong.
Đặc điểm giải phẫu:
Rễ
Vi phẫu cắt ngang hình tròn, chia làm 2 vùng rõ rệt, vùng vỏ chiếm 1/4 diện tích vi phẫu, vùng trung trụ chiếm 3/4. Các mô gồm:
Vùng vỏ: Bần 3-4 lớp tế bào hình chữ nhật dẹt, xếp xuyên tâm; các lớp tế bào ngoài cùng thường bị bong rách. Nhu bì 2-3 lớp tế bào hình chữ nhật rất dẹt, vách celulose, xếp xuyên tâm với lớp bần. Mô mềm vỏ 9-10 lớp tế bào hình bầu dục hay gần tròn, xếp lộn xộn, chừa những đạo nhỏ hay khuyết to. Nội bì 1 lớp tế bào hình bầu dục dẹt, có đai caspari rõ. Túi tiết kiểu ly bào thường có ở vùng mô mềm sát nội bì, bao quanh bởi một vòng 4-5 tế bào tiết hình bầu dục dẹt.
Vùng trung trụ: Trụ bì 1 lớp tế bào hình bầu dục dẹt hay đa giác, xếp xen kẽ với tế bào nội bì. Libe xếp thành một vòng, bị tia libe chia thành từng chùy hình nón không đều; libe cấp 1 ở đỉnh chùy, libe cấp 2 bên dưới, tế bào hình chữ nhật, xếp xuyên tâm. Tầng sinh libe gỗ nằm giữa libe cấp 2 và gỗ cấp 2. Gỗ cấp 2 chạy vào đến tâm; mạch gỗ không đều, rải rác khắp vùng mô mềm gỗ; mô mềm gỗ tế bào hình đa giác, vách hóa gỗ, xếp khít nhau. Gỗ cấp 1 thường không phân biệt được. Tia tủy đi từ tâm xuyên qua vùng gỗ và libe; tia gỗ hẹp, 2-4 dãy tế bào hình chữ nhật, xếp xuyên tâm, vách mỏng hóa gỗ hay vách celulose, xếp khít nhau; tia libe rõ, tế bào to, thường loe rộng thành hình chữ V.
Thân
Vi phẫu cắt ngang hình tròn, vùng vỏ chiếm 1/10 diện tích vi phẫu, vùng trung trụ chiếm 9/10. Các mô từ ngoài vào trong gồm:
Vùng vỏ: Biểu bì 1 lớp tế bào hình bầu dục dẹt; lớp cutin dày, có răng cưa nhỏ. Lông che chở nhiều, các tế bào xếp trên một hàng dọc, đầu nhọn, có 2 loại: lông dài với 10-15 tế bào hình chữ nhật thuôn, vách mỏng, thường cong quẹo, kéo dài từ 1 tế bào biểu bì; lông ngắn hơn với 2-4 tế bào không đều, tế bào bên dưới phình to, vách dày lấm tấm hạt, kéo dài từ 2-3 tế bào biểu bì. Lông tiết ít hơn lông che chở, đầu tròn to đơn bào, chân rất ngắn. Mô dày là một vòng liên tục, 6-8 lớp tế bào hình bầu dục dẹt, vách dày ở góc. Mô mềm vỏ 8-10 lớp tế bào hình tròn, sắp xếp lộn xộn, chừa những đạo nhỏ ở góc các tế bào. Nội bì 1 lớp tế bào hình bầu dục hay đa giác, có đai caspari rõ. Túi tiết kiểu ly bào rải rác trong vùng mô mềm, bờ là một vòng 6-8 tế bào tiết hình bầu dục dẹt, méo mó.
Vùng trung trụ: Trụ bì hóa mô cứng thành từng cụm không đều ở ngay trên đầu mỗi bó libe gỗ, tế bào hình đa giác, vách dày, xếp khít nhau. Vòng mô dẫn uốn lượn hình sao không đều, libe và gỗ họp thành từng bó rời, kích thước không bằng nhau, xếp xen kẽ với những khoảng mô mềm (khoảng gian bó). Bó libe gỗ gồm: libe thành từng cụm trên đầu bó gỗ, libe cấp 1 ở trên, libe cấp 2 ở dưới, 5-8 lớp tế bào gần tầng sinh libe gỗ có hình chữ nhật rõ, xếp xuyên tâm; tầng sinh libe gỗ ở giữa libe cấp 2 và gỗ cấp 2; gỗ cấp 2 với những mạch gỗ không đều, xếp thành từng dãy, mô mềm gỗ cấp 2 tế bào hình chữ nhật hay đa giác, vách hóa gỗ, xếp khít nhau; gỗ cấp 1 với mạch gỗ xếp thành từng bó, mỗi bó 2-5 mạch không đều, phân hóa ly tâm, mô mềm gỗ tế bào hình đa giác, vách celulose. Cụm mô cứng có thể có dưới gỗ cấp 1, tế bào vách mỏng hóa gỗ. Khoảng gian bó gồm 5-10 dãy tế bào hình chữ nhật xếp xuyên tâm, khít nhau, vùng mô mềm phía trên tầng sinh libe gỗ tế bào vách celulose, vùng mô mềm phía dưới tế bào vách hóa gỗ. Mô mềm tủy rộng, tế bào hình tròn hay bầu dục, vách celulose, xếp chừa những đạo nhỏ.
Lá
Gân giữa: lồi ít ở mặt trên, lồi tròn nhiều ở mặt dưới. Biểu bì tế bào hình bầu dục; lớp cutin có răng cưa nhỏ. Lông che chở và lông tiết tương tự ở thân. Mô dày trên 9-10 lớp tế bào hình tròn hay bầu dục, vách dày nhiều ở góc. Mô mềm tế bào hình bầu dục hay gần tròn, sắp xếp lộn xộn chừa những đạo nhỏ. Bó libe gỗ gồm 5-6 bó không đều, xếp thành một vòng; mỗi bó gồm libe ở ngoài, gỗ ở trong với mạch gỗ kích thước không đều, mô mềm gỗ tế bào hình đa giác, xếp khít nhau, vách celulose; mô dày từng cụm bao sát phía ngoài libe, tế bào nhỏ, vách dày đều xung quanh. Mô dày dưới 4-5 lớp tế bào có vách dày ở góc, tạo thành một cung liên tục. Túi tiết kiểu ly bào rải rác trong mô mềm, bờ là một vòng 5-10 tế bào tiết nhỏ, hình bầu dục méo mó.
Phiến lá: Biểu bì tế bào hình bầu dục; biểu bì trên tế bào thường to hơn, biểu bì dưới nhiều lỗ khí; lớp cutin mỏng. Lông che chở và lông tiết tương tự ở thân. Mô mềm giậu 2-3 lớp dưới biểu bì trên, 1-2 lớp trên biểu bì dưới, tế bào hình chữ nhật thuôn dài, xếp khít nhau và thẳng góc với biểu bì. Mô mềm khuyết tế bào không đều. Bó libe gỗ của gân phụ với gỗ ở trên, libe ở dưới, bao xung quanh là một vòng tế bào mô mềm to, hình tròn hay bầu dục; bao mô mềm này nối liền với 2 lớp biểu bì bằng 1-2 dãy tế bào mô mềm; dãy nối với biểu bì trên tế bào to, hình đa giác, dãy nối với biểu bì dưới tế bào nhỏ, hình gần tròn. Tinh thể calci oxalat hình cầu gai rải rác trong mô mềm khuyết.
Cuống lá: Vi phẫu cắt ngang có mặt trên hơi lõm, mặt dưới lồi tròn. Biểu bì, lông che chở và lông tiết tương tự ở gân giữa. Mô dày 6-9 lớp tế bào, hình tròn hay bầu dục, vách dày lên ở góc, tạo thành một vòng liên tục. Mô mềm tế bào hình gần tròn, xếp chừa những đạo nhỏ. Libe gỗ là 7-9 bó không đều, xếp thành hình vòng cung; libe tạo thành cụm hình nón bao phía dưới bó gỗ; bó gỗ ở trên, gồm các mạch gỗ không đều xếp thành nhiều dãy, mô mềm gỗ tế bào hình đa giác, vách celulose, xếp khít nhau; trên gỗ và dưới libe thường có cụm mô dày, tế bào nhỏ, vách dày ở góc. Túi tiết kiểu ly bào tương tự ở gân giữa.
Quả
Phần gọi là quả từ ngoài vào trong gồm các phần: vỏ quả giả do lá bắc biến đổi thành, mặt ngoài nhiều gai móc và quả thật với vỏ quả thật, vỏ hạt và cây mầm.
Vỏ quả giả: từ ngoài vào trong gồm các mô: Biểu bì ngoài và biểu bì trong 1 lớp tế bào hình chữ nhật tương đối đều, mặt ngoài phủ cutin; tế bào biểu bì ngoài có vách và lớp cutin dày hơn tế bào biểu bì trong. Lông nhiều, gồm 2 loại: lông che chở đa bào, đầu nhọn, có 2 dạng: (1) lông mềm, uốn éo, vách rất mỏng, có 10-12 tế bào xếp trên một hàng; (2) lông cứng, thẳng, vách dày, có 4-10 tế bào xếp thành 1-2 (3) dãy, tế bào ngọn lông thường thuôn hẹp và vách dày hơn các tế bào bên dưới; lông tiết có 3 dạng: (1) lông có chân đơn bào đầu tròn to đơn bào, (2) lông có chân đa bào dài hay ngắn, các tế bào xếp thành 1-3 dãy, đầu tròn to đơn bào, (3) lông có chân đa bào xếp thành 2 dãy dọc, đầu đa bào với 5-9 tế bào dẹt xếp chồng lên nhau. Mô mềm ngoài nhiều lớp tế bào hình bầu dục hay tròn, vách dày, xếp lộn xộn chừa những đạo hay khuyết nhỏ. Mô cứng phát triển, nhiều lớp tế bào hình đa giác xếp khít nhau, vách hóa gỗ dày hay mỏng, vùng này kéo dài vào trong các gai móc. Bó libe gỗ kích thước nhỏ, nằm trong vùng mô cứng, gồm gỗ ở dưới, libe ở trên, bao xung quanh gỗ là vùng mô mềm với những tế bào hình tròn, vách celulose, xếp chừa những đạo nhỏ. Mô mềm trong nhiều lớp tế bào hình bầu dục, vách rất mỏng, xếp chừa những khuyết to.
Gai móc: Mặt cắt ngang phần gốc gai có hình tròn, gồm các mô: Biểu bì 1 lớp tế bào hình bầu dục dẹt, lớp cutin dày. Lông che chở và lông tiết cấu tạo tương tự ở phần vỏ quả giả. Mô mềm vỏ 3-4 lớp tế bào hình bầu dục, xếp chừa những đạo nhỏ. Mô cứng nhiều lớp tế bào hình đa giác, xếp khít nhau, vách hóa gỗ dày hay mỏng. Bó libe gỗ 2-3 xếp trên một vòng ngay dưới vùng mô cứng, cụm libe ở trên, gỗ 2-4 mạch nhỏ, không đều. Mô mềm tủy tế bào hình tròn, vách celulose, xếp chừa những đạo.
Vỏ quả thật: Biểu bì 1 lớp tế bào hình bầu dục. Mô mềm ngoài 2-3 lớp tế bào hình bầu dục hay đa giác, xếp chừa những đạo. Mô cứng 8-10 lớp tế bào hình đa giác, xếp khít nhau, vách tẩm chất gỗ; những lớp ngoài vách rất dày, những lớp trong vách mỏng hơn. Bó libe gỗ rất nhỏ ngay dưới vòng mô cứng, bó libe ở ngoài, bó gỗ ở trong gồm 2-4 mạch. Mô mềm trong nhiều lớp tế bào, không rõ hình dạng, xếp chừa những khuyết giữa các tế bào.
Vỏ hạt: Biểu bì 1 lớp tế bào to, hình chữ T. Mô mềm chia làm 3 vùng: vùng ngoài 1-3 lớp tế bào hình bầu dục hay có thùy, xếp chừa những khuyết to hay nhỏ; vùng giữa 4-5 lớp tế bào hình bầu dục, xếp chừa những đạo nhỏ; vùng trong nhiều lớp tế bào bị ép dẹp, không rõ hình dạng. Bó libe gỗ nhỏ, trong vùng mô mềm giữa, libe ở ngoài, gỗ ở trong. Trong cùng là lớp mô mềm, tế bào chứa hình bầu dục, vách mỏng, bên trong chứa đầy hạt tinh bột.
Đặc điểm bột dược liệu:
Bột quả giả màu nâu nhạt, mùi thơm nhẹ, vị hơi béo và đắng.
Soi kính hiển vi thấy: Rất nhiều lông che chở đa bào: có thể được mang trên mảnh biểu bì vỏ quả hay các đoạn lông uốn éo gồm 6-8 tế bào, dài, vách mỏng (dạng này ít gặp); đoạn lông thẳng, 4-10 tế bào, vách dày, gốc to, đỉnh thuôn nhọn, tế bào ngọn lông thường hẹp và vách dày hơn các tế bào nên dưới (dạng này rất nhiều). Các đoạn lông tiết chân đa bào, đầu đa bào; các mảnh đầu lông tiết hình tròn hay hình bầu dục chứa chất tiết màu vàng. Mảnh biểu bì vỏ quả giả với các tế bào màu vàng, hình chữ nhật hay đa giác, xếp sát nhau. Mảnh mạch xoắn, mạch vạch. Tế bào mô cứng vách dày hay mỏng, riêng lẻ hay thành từng cặp. Mảnh sợi của gai móc, các sợi riêng lẻ hoặc tập trung thành bó. Mảnh mô mềm có hay không có hạt tinh bột bên trong. Hạt tinh bột nhỏ, hình tròn hay hình trứng, tễ là một vạch ngắn ở giữa.
Phân bố, sinh học và sinh thái:
Phân bố ở Ấn Độ, Việt Nam,Thái Lan, Indonesia. Ở nước ta, cây mọc hoang từ Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa đến Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang ở các đồi bãi, ven đường, các bãi cỏ, nơi trống có nhiều ánh sáng.
Ra hoa hầu như quanh năm, chủ yếu vào tháng 6-7.
Bộ phận dùng:
Quả (Fructus Xanthii strumarii), có khi dùng toàn cây.
Thành phần hóa học:
Chứa iod và một loại glucosid.
Tác dụng dược lý - Công dụng:
Cây được dùng chữa phong hàn đau đầu, tay chân co rút, phong tê thấp, đau khớp, mũi chảy nước hôi, mày đay, lở ngứa, tràng nhạc, mụn nhọt, làm ra mồ hôi, đau răng, đau họng, sởi, giang mai, bướu cổ, hạ huyết áp. Liều dùng 6-10 dạng thuốc sắc.
Thông tin thêm
Bộ phận dùng: Quả - Fructus Xanthii, thường gọi là Thương nhĩ tử. Phần cây trên mặt đất - Herba Xanthiicũng được sử dụng. Ở Trung quốc, người ta dùng quả của loài Xanthium sibiricum Patrin. gọi là Thương nhĩ. Ở Ấn độ, người ta dùng loài Xanthium strumarium L. Tên này cũng thường được dùng để chỉ loài Ké đầu ngựa của nước ta. Chúng tôi dựa vào mô tả trong "Cây cỏ Việt Nam 1993" để giới thiệu tên trên. LoàiXanthium inaequilaterum DC., cũng gặp ở Trung quốc và có tên là Thiên cơ thương nhĩ (Thương nhĩ gốc lệch).
Đơn thuốc:
1. Chữa phong thấp, tê thấp, tay chân co rút: Quả Ké đầu ngựa 12g giã nát sắc uống.
2. Chữa phong thấp đau khớp, tê dại đau buốt nửa người, hoặc chân tay lở ngứa ra mồ hôi, viêm xoang, chảy nước mũi, đau trước trán, hay đau ê ẩm trên đỉnh đầu: Ké đầu ngựa 12g, Kinh giới, Bạch chỉ mỗi vị 8g; Xuyên khung, Thiên niện kiện mỗi vị 6g sắc uống.
3. Chữa phong hủi: Lá Ké đầu ngựa, lá Đắng cây, lá Thầu dầu tía, củ Khúc khắc đều 12g, lá Khổ sâm, lá Hồng hoa, lá Thanh cao, Kinh giới, Xà sàng, Bạch chỉ, đều 8g, Nam sâm 8g sắc uống. Thuốc dùng ngoài: Lá Ké đầu ngựa, Lá Cà độc dược, lá Trắc bá, lá Cau, lá Khổ sâm, lá Ngải cứu, lá Thông, lá Quýt nấu nước trước xông, sau tắm.
4. Chữa chứng phong khí mẩn ngứa: Lá Ké đầu ngựa tán bột 8g, uống với rượu ngâm đậu đen. Phối hợp với thuốc dùng ngoài: Lá Ké đầu ngựa, lá Bồ hòn, lá Nghể răm, lá Thuốc bỏng, nấu nước để xông và tắm.
5. Chữa đau răng: Sắc nước quả Ké (liều vừa phải) ngậm 10 phút rồi nhổ ra. Ngậm nhiều lần trong ngày.
6. Apxe sâu: Ké đầu ngựa 50g, Thài lài 30g giã đắp.
7. Apxe vú, bị thương chảy máu: Giã cây tươi đắp ngoài
8. Chữa các bệnh phong, dị ứng gan, mẩn ngứa, mày đay: Ké đầu ngựa 15g, Kinh giới bông 10g, Muồng trâu 15g, Cỏ Mần trầu 15g, Cam thảo đất 10g, Bạc hà 10g, Cỏ hôi 10g, Bèo tai tượng 15g, Chổi đực 10g, Nghể bà 10g. Các vị hiệp chung một thang, đổ một bát nước, sắc còn 8 phần, uống ngày 1 thang (Kinh nghiệm ở An giang).