1. Cây Mao lương, Mao lương độc -Ranunculus sceleratus L., thuộc họ Hoàng liên - Ranunculaceae.
2. Thông tin mô tả chi tiết Dược liệu Mao lương
Mô tả: Cây thảo hằng năm, không lông, cao 30-70cm. Lá đa dạng, la ở gốc xoan rộng, chẻ sâu làm 3-5 thuỳ; lá trên do 3 lá chét rộng hay hẹp. Hoa nhỏ rộng cỡ 1cm, màu vàng tươi; mỗi hoa có 5 lá đài nhọn; 5 cánh hoa có vẩy tiết ở gốc, nhiều nhị và nhiều lá noãn có vòi rút ngắn. Ðế hoa dài ra thành trụ mang bế quả dẹp.
Ra hoa tháng 2-6.
Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Ranunculi, ở Trung Quốc gọi là Thạch long nhuế.
Nơi sống và thu hái: Loài của Ấn Ðộ, Trung Quốc và Việt Nam. Ở nước ta cây thường mọc trên đất khô dần, phát tán theo dòng nước sông, mọc ở Vĩnh Phú, Hà Tây, Hà Nội, Nam Hà, Hải Phòng. Thu hái cây vào mùa hè rửa sạch phơi khô.
Thành phần hoá học: Cây chứa anemonin và 2,50% protoanemonin ngay sau khi cây nở rộ. Ở cây tươi có chất rất kích thích là anemonol nhưng khi phơi khô sẽ biến thành một chất kém hoạt động hơn là anenonin.
Tính vị, tác dụng: Vị đắng, tính bình, có độc. Cây có tác dụng tiêu phù, tiêu viêm, trừ sốt rét, điều kinh, lợi sữa. Lá làm rộp da, khi dùng các bộ phận của cây tươi xát vào da, sẽ tạo ra một mảng đỏ thắm, sau đó phồng lên.
Chỉ dùng ngoài, giã cây tươi hoặc chế thành thuốc bôi dẻo đắp, nếu thấy chỗ đắp bị sưng thì tháo thuốc đắp ra.
Ở Ấn Ðộ được dùng đắp vào da để làm phồng da. Hạt có thể dùng giã nhỏ đắp lên mụn nhọt chưa vỡ mủ hay những chỗ sưng tấy, áp xe. Còn được dùng làm thuốc dễ tiêu, làm dịu hơi thở và chữa bệnh về thận.
Ðơn thuốc:
1. Lao hạch bạch huyết: Giã cây tươi đắp.
2. Nhọt, viêm mủ da, rắn cắn: rửa cây tươi và giã lấy dịch bôi.