Cây trương quân trừ phong thấp, giải nhiệt, giải độc, mạnh gân, khoẻ xương, trục ứ, trừ đờm

Cây trương quân hay còn gọi là cây trung quân, hay dây lá hợp Ancistrocladus scandens (Lour.) Merr, họ trung quân (Ancistrocladaceae). Toàn cây cũng được dùng làm thuốc vì có vị đắng, chát, tính bình, không độc, có tác dụng trợ khí, hành huyết, tiêu phong thấp, giải nhiệt, giải độc, mạnh gân, khoẻ xương, trục ứ, trừ đờmThân leo làm dây cột rất bền và chắc chắn.

Một số cách dùng cây trương quân làm thuốc

Trị đau lưng, đau xương khớp và tê mỏi thần kinh ngoại biên: Phối hợp trương quân với cốt toái bổ, cẩu tích, kê huyết đằng, tang chi, tang ký sinh mỗi vị 12-16g. Sắc uống ngày một thang. Uống liền 2-3 tuần lễ.

Trị sốt rét: Phối hợp với rễ cây thường sơn (Radix Dichroae febrifugae), mỗi vị 12g, thảo quả 4g, dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc hoàn. Ngày 1 thang. Uống liền 3 - 4 tuần tới khi hết các triệu chứng.

Trị lỵ: Phối hợp với cỏ sữa nhỏ lá (hoặc lớn lá), mỗi vị 10-12g, nam mộc hương 16g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống liền 2-3 tuần. Có thể dùng cho phụ nữ sau đẻ, lấy rễ và thân trương quân, thái mỏng sao vàng, sắc uống, ngày 12-16g. Uống vài ba tuần.

Trị đau xương cốt, đau mỏi cơ nhục và bồi bổ cơ thể: Lấy rễ và dây trương quân, vỏ cây đỗ trọng nam, rễ nhàu mỗi vị 200g; kê huyết đằng, huyết giác, sâm bố chính, quy bản mỗi vị 100g; trần bì 20g. Tất cả cho vào bình, ngâm với 3 - 4 lít rượu 30 - 45 độ trong thời gian 3-4 tuần là có thể uống được, ngày 2 - 3 lần, mỗi lần 30 - 40ml trước bữa ăn.  

Thông tin mô tả cây:

Cây trương quân hay còn gọi là cây trung quân, hay dây lá hợp Ancistrocladus scandens (Lour.) Merr, họ trung quân (Ancistrocladaceae). Bộ phận dùng là toàn cây, có thể thu hái lá và thân cây quanh năm, rễ đào vào mùa đông, rửa sạch, phơi ráo nước, thái vát đối với thân, dài 3 - 5cm, phơi khô hoặc sấy khô. Khi dùng có thể sao vàng. Trương quân là cây mọc hoang, phân bố rải rác ở các tỉnh miền núi phía Bắc đảo Cát Bà (Hải Phòng); phía Nam chủ yếu từ tỉnh Quảng Nam trở vào.

Theo y học cổ truyền, trương quân có vị đắng, chát, tính bình, không độc. Có công năng hành huyết, hóa ứ, trừ phong thấp, mạnh gân xương, giải nhiệt, trục ứ huyết, trừ đờm, giải độc. Thường được dùng trị đau lưng, đau xương khớp, phong thấp, chân tay tê mỏi; nhất là trường hợp phụ nữ sau đẻ, người mệt mỏi, đau nhức toàn thân, yếu sức. Ngoài ra còn dùng trị đau bụng do lỵ và sốt rét. Liều dùng chung từ 8-16g, dưới dạng thuốc sắc, thuốc hãm hay thuốc ngâm rượu uống.