Nếu nói cho đầy đủ (xét ở phương diện giáo lý) thì đạo Phật không có cầu an cầu siêu, không có lập chùa thờ ảnh tượng, thời Phật cũng không có ăn chay, càng không có tuần cúng thất và cúng 49 ngày…
Tuy nhiên, trong giáo lý của cả hai hệ truyền thừa đều nói đến nhân quả nghiệp báo, luân hồi tái sinh.
Từ những lời giảng trên, khi đạo Phật truyền bá vào mỗi dân tộc mà nó được gia giảm thêm bớt cho phù hợp với mỗi truyền thống văn hoá, nhưng vẫn không ra ngoài tinh thần cốt lõi của Phật giáo là hộ quốc an dân, cứu khổ ban vui.
Quá khứ lịch sử Việt Nam, Trung Hoa còn khuyếch trương tinh thần tam giáo đồng nguyên (Phật, Lão, Nho cùng một nguồn cội). Thế nên di sản văn hoá chùa chiền Việt Nam hiện nay trên điện Phật có thờ đủ cả tam giáo, sau đó là tín ngưỡng tứ phủ (đạo Mẫu) cũng xuất hiện trong chùa chiền Phật giáo.
Những di sản từ quá khứ này còn phù hợp hay không, theo thời gian sẽ tự điều chỉnh thậm chí đào thải, nhưng nó vẫn là một thực thể văn hoá tồn tại, mà kết luận tích cực nhất ở đây chính là nhờ tinh thần ấy mà phương Đông không có chiến tranh tôn giáo, dù trong lịch sừ nó vẫn thúc ước lẫn nhau.
Văn hoá tín ngưỡng thờ cúng trên đã trở thành một phần của di sản văn hoá Phật giáo Việt Nam.
Việc cúng linh, triệu vong trước đây ở các chùa chiền miền bắc diễn ra trong nghi thức cúng 49 ngày. Ban đầu một số nơi còn có triệu hồn, một nghi thức mà các thầy pháp hay làm. Khổ nỗi tâm lý của dân ở đâu triệu được vong về tá khẩu thì mới “thiêng”.
Sau này chùa chiền có sư tu hành, những nghi thức gọi hồn lên cho vong nói những điều chưa thoả nguyện dần bị lược bỏ, hạn chế.
Khi ấy các Hòa thượng chỉ cho giữ nghi thức cúng 49 ngày, triệu linh về để quy linh và nghe kinh thôi. Các Tổ dạy nếu để vong hồn tá khẩu nhập vào người sống phán bảo sẽ gây nhiều hệ luỵ mâu thuẫn gia đình. Cụ thể, nếu người ta giả bị vong nhập nói chuyện yêu qúy người này ghét bỏ người kia, hay liên quan đến phân chia tài sản thì mâu thuẫn càng lớn. Những thầy nào còn duy trì điều này để loè bịp chuyện triệu được vong về là hành tà pháp. Thời Phật, Phật có đủ tam minh lục thông, nhưng vẫn cấm thi triển thần thông phép lạ.
Cũng như vậy, trước nay đạo Mẫu khi lên đồng họ phán bảo đủ điều gây ra hệ luỵ hoang mang, nay đa số họ chỉ tá khẩu chúc phúc và chứng lễ chứ không phán bảo gì.
Thế còn với nghi thức giải oan bạt độ vong linh, vì trong kinh có nói đến con người có nhiều hình thức bị chết oan uổng, không thể siêu thoát, lạc vào cảnh giới ngã qủy, súc sinh…, nên phải giải oan bạt độ.
Từ dùng “oan gia trái chủ” trong Phật giáo cũng xuất phát từ Từ bi thuỷ sám. Những ý nghĩ tàn độc, những hành vi tàn độc, những câu nói tàn độc kết thành các nghiệp oan trái. Ví dụ vì lời nói nguyền rủa cay độc của mình mà họ tự tử chẳng hạn. Các nghiệp do thân do khẩu do ý gây ra kết thành oan trái nơi thân mình, ví dụ sinh ra các bệnh nan y, bị các chứng tật chữa mãi không lành, hay cứ nằm ốm bệnh dày vò mãi không thể chết được.
Phép sám hối nghiệp chướng kia dù không giúp bệnh nhân giải được nghiệp, chữa khỏi bệnh đi nữa cũng giúp họ từ đó về sau bình thản, hạn chế tạo thêm các nghiệp nơi thân khẩu ý. Nếu được hội chúng tăng ni, phật tử gia trì thêm thì hiệu quả càng lớn.
Chùa Ba Vàng không sai nếu chỉ vận dụng phép triệu thỉnh vong linh thụ phan về chùa nghe kinh, sám hối. Nhưng chùa Ba Vàng đã sai khi cho oan gia trái chủ tá khẩu nhập vào người cụ thể phán bảo về nguyên nhân kiếp nọ kiếp kia hay ra giá tiền để giải nghiệp.
Nghi thức giải oan cắt kết có trong khắp các chùa chiền Phật giáo miền Bắc. Nhiều gia đình dòng họ có người chết oan khuất đều thực hiện nghi thức này. Tuỳ theo điều kiện kinh tế của gia chủ, tuỳ theo quy mô đàn tràng kéo dài các nghi thức trong 3 ngày hay 7 ngày, tuỳ vào lượng khách mời và cúng dường thỉnh tăng mà đàn tràng có thể lên đến vài trăm triệu, thậm chí cả tỷ.
Thầy trụ trì hoàn toàn có thể ước định quy mô theo tâm nguyện của gia chủ mà nói đến kinh phí, vì đây là tâm nguyện gia chủ không ai ép buộc.
Câu chuyện thỉnh oan gia trái chủ chùa Ba Vàng cũng không khác việc các nhà ngoại cảm triệu hồn nghe vong nói chuyện một thời, cũng không khác câu chuyện của Đại đức Thích Giác Nhàn ở Lâm Đồng khi trước.
P/s: Khi xử lý vụ việc, Giáo hội nên phân định rõ ràng cái gì là nghi thức phổ biến và cái gì là biến tướng của nghi thức. Tránh tình trạng báo chí quá đà mượn chuyện công kích vào hệ thống giáo lý nhân quả, nghiệp báo, luân hồi vốn dĩ rất nhân văn của Phật giáo, bởi từ đó nếu không khéo, chính báo chí lại xâm phạm quyển tự do tín ngưỡng của người khác.