1. Cây Rau cúc sữa, Nhũ cúc rau, Rau diếp đắng - Sonchus oleraceus L, thuộc họ Cúc - Asteraceae.
Cây Rau cúc sữa - Sonchus oleraceus L
2. Thông tin mô tả chi tiết Dược liệu Rau cúc sữa
Mô tả: Cây thảo mọc hàng năm, có thân rỗng, thẳng, nhẵn cao 30-100cm, hay hơn. Lá mọc so le, xẻ tua, với các thuỳ có răng, thuỳ cuối cùng hình tam giác, có tai rộng, tận cùng thành mũi. Cụm hoa đầu màu vàng, dạng trứng, thành ngù hay thành tán; lá bắc nhiều, xếp nhiều dãy, lợp lên nhau hình tam giác hay hình dải. Quả bế hẹp, có mào lông rất mềm xếp thành nhiều dẫy.
Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Sonchi Oleracei.
Nơi sống và thu hái: Rau cúc sữa thường gặp ở vùng lạnh nhất là các tỉnh Tây Nguyên, mọc nhiều ở đất hoang vùng Ðà Lạt (Lâm Ðồng). Thu hái thân cây quanh năm, thái nhỏ dùng tươi hay phơi khô.
Thành phần hoá học: Lá và ngọn non có 2,4%, hydratcarbon, 1,2% protein, 0,8% chất béo và 1,2% tro, có nhiều vitamin C. Dịch sữa của cây chứa 0,41% chất cao su.
Tính vị, tác dụng: Vị đắng tính mát, hơi có độc, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lương huyết, chỉ huyết. Dịch sữa của cây khi khô thành 1 chất gôm màu trắng với liều 15-25%, nó sẽ tạo thành một loại thuốc xổ có hiệu lực, một loại thuốc tẩy tác dụng lên ruột, lên sự bài tiết mật và tạo ra những khối phân lỏng nhiều làm cho nó trở thành có ích trong việc trị liệu phù thũng, cổ trướng, tràn dịch màng phổi. Nó tạo nên những cơn đau bụng và buốt mót, do đó cần phối hợp với các chất kích thích thơm như Hồi, carbonat magnesium.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Thường được dùng trị:
1. Viêm ruột, lỵ;
2. Ðau gan, xơ gan;
3. Ruột thừa, viêm vú;
4. Viêm hầu họng, viêm miệng sưng amygdal;
5. Nôn ra máu từ dạ dày, chảy máu cam, ho ra máu, xuất huyết tử cung.
Liều dùng 15-30g sắc uống.
Dùng ngoài trị nhọt đinh và viêm mủ da, viêm tai giữa, nghiền cây tươi để dùng ngoài hoặc chích dịch lá tươi để dùng như thuốc nhỏ tai.
Ở Phi châu (Tuynidi) người ta cũng dùng để làm tan mụn cóc bằng cách giã cành lá tươi đắp; cũng dùng dịch lá tươi để nhỏ vào tai trị đau tai giữa.
Rau cúc sữa được dùng làm rau ăn ở Inđônêxia, Philippin, Việt Nam và cả ở Phi châu. Người ta dùng ăn như rau xà lách, có tác dụng trị cảm mạo, và dùng cho phụ nữ đang cho con bú ăn để có nhiều sữa.
Ở Châu Phi, nước sắc những phần cây trên mặt đất được chỉ định dùng trị bệnh trĩ (uống mỗi buổi sáng từ 1-2 ly). Nước sắc này cũng có tính lọc máu và chống đái đường.
Ðơn thuốc:
1. Xơ gan: Rau cúc sữa 30g, Rau chua me 30g xào với thịt lợn nạc dùng ăn như thức ăn.
2. Viêm vú, đinh nhọt, viêm da: Dùng rau cúc sữa 15-30g tươi, sắc uống. Ðồng thời giã cây tươi đắp lên chỗ đau.