views
Được quan sát tại Vườn Quốc gia Gunung Leuser ở Indonesia, con đười ươi tên Rakus đã tự hái lá từ cây dây leo Akar Kuning (Fibraurea tinctoria), một loại thảo dược được sử dụng từ lâu trong y học cổ truyền của người địa phương để chữa lành vết thương và các bệnh khác như đái tháo đường, kiết lỵ và sốt rét. Rakus đã dành hơn nửa tiếng để nhai và bôi bã lá lên vết thương của mình, một hành động cho thấy sự nhận thức đặc biệt về lợi ích chữa bệnh của thảo dược này.
Hơn nửa tháng sau, vết thương của Rakus đã gần như lành hoàn toàn, chỉ để lại một vết sẹo nhạt. Sự phục hồi này không chỉ cho thấy khả năng chữa lành đáng kinh ngạc từ loại lá này mà còn cung cấp cái nhìn sâu sắc vào nguồn gốc của các phương pháp y tế mà loài người có thể đã thừa hưởng từ tổ tiên linh trưởng của chúng ta.
Phát hiện này mở ra một lĩnh vực nghiên cứu mới về cách thức các loài động vật sử dụng thảo dược trong tự nhiên để tự chữa bệnh, đồng thời củng cố thêm niềm tin vào y học cổ truyền và các bài thuốc tự nhiên. Nó cũng thách thức chúng ta suy nghĩ lại về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, cũng như cách chúng ta tiếp cận và đánh giá các phương pháp điều trị y học.
Để tìm hiểu thêm về các loại thảo dược và cách chúng có thể hỗ trợ chữa bệnh, hãy truy cập caythuocquanhta.com, nơi cung cấp kiến thức sâu rộng về y học cổ truyền và các sản phẩm từ thiên nhiên có thể tăng cường sức khỏe và chất lượng cuộc sống.
Tìm hiểu thông tin cây thuốc có trong bài viết trên
Tên khác: Hoàng liên đằng, Dây vàng giang, Nam hoàng liên
Tên khoa học: Fibraurea tinctoria Lour., Menispermaceae (họ Tiết dê)
Mô tả cây: Cây dây leo, thân to, cứng có rễ và thân già màu vàng. Thân và rễ mặt ngoài màu nâu có nhiều vân dọc và sẹo của cuống lá (đoạn thân) hay sẹo của rễ con (đoạn rễ). Mặt cắt ngang có màu vàng gồm 3 phần rõ rệt: phần vỏ hẹp, phần gỗ có những tia ruột xếp thành hình nan hoa bánh xe, phần ruột ở giữa tròn và hẹp; thể chất cứng, khó bẻ gãy, vị đắng. Lá to cỡ bàn tay, mặt trên láng bóng, cuống uốn đặc biệt. Hoa nhỏ, màu vàng lục, đơn tính, khác gốc, mọc thành chuỳ dài ở kẽ lá đã rụng, phân nhánh hai lần, dài 30-40cm. Quả hạch hình trái xoan, khi chín màu vàng. Mùa hoa tháng 5-7.
Bộ phận dùng, thu hái và chế biến: Toàn thân, rễ, lá (Caulis et Radix Fibraureae tinctoriae) được dùng làm thuốc. Thân, rễ dùng nhiều hơn. Rễ và thân cây thu hái vào tháng 8-9, cạo sạch lớp bần bên ngoài, chặt từng đoạn, phơi khô hay sấy khô.
Thành phần hóa học: Alkaloid: Chủ yếu là palmatin (1-3%), ngoài ra còn có jatrorrhizin, columbamin, berberin.
Tác dụng dược lý: Rễ thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, tiêu viêm, sát trùng. Palmatin có tác dụng kháng sinh ức chế đối với các vi khuẩn đường ruột, làm giảm viêm.
Công dụng và cách dùng : Hoàng đằng dùng để chữa bệnh viêm ruột, tiêu chảy, lỵ trực trùng và lỵ amip. Còn dùng chữa đau mắt đỏ, viêm bàng quang, viêm tai có mủ, chữa mụn nhọt, đau họng. Thân và lá sắc uống chữa đau lưng.
Hoàng đằng là nguồn nguyên liệu chiết palmatin. Palmatin chữa viêm ruột, viêm bàng quang, viêm gan, đau mắt, mụn nhọt, sốt nóng, kiết lỵ, hồi hộp, mất ngủ.
Theo thông tin khác: Hoàng Đằng (Nam Hoàng Liên) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Còn gọi là nam hoàng liên, thích hoàng liền.
Tên khoa học Fibraurea tinctoria Lour. (Fibraurea recisa Pierre).
Thuộc họ Tiết dê Menispermaceae.
Mô tả cây
Có tác giả gộp hai cây hoàng đằng Fibraurea tinctoria và Fibraurea recisa làm một loài nhưng có tác giả phần thành hai loài khác nhau.
- Cây hoàng đằng Fibraurea recisa là một loài cây mọc leo, thân rất cứng to. Lá mọc so le, dài 9-20cm, rộng 4-10cm, cứng, nhân phiến lá hình ba cạnh dài, phía dưới tròn, có ba gần chính rõ và hai gân cong; cuống dài 5-14cm có hai nốt phình lên, một ở phía dưới, một ở phía trên. Hoa mọc thành chùy, 2-3 lần phân nhánh, dài 30-40cm ở kẽ các lá đã rụng.
- Cây Fibraurea tinctoria theo các tác giả chia làm hai loài thì khác cây trên ở chỗ lá nhọn, chùy hai đến bốn lần ngắn hơn, chi phân nhánh hai lần thôi.
- Chi tiết có tại:
Nhân biết và phân loại Cây Hoàng đằng tại Việt Nam
Phân bố thu hái và chế biến
Mọc hoang khắp nơi ở vùng núi nước ta như Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Tây, Hoà Bình, Thanh Hóa, Hà Giang, Tuyên Quang, Nghệ An, Hà Tĩnh, v.V…
Mùa thu hoạch gần quanh năm. Có thể thu hoạch cả cây, cắt thành từng đoạn thân hoặc có thể chỉ lấy rễ thôi. Nhưng thường dùng cả thân và rể cắt thành từng đoạn ngắn 15 20cm, phơi hay sấy khô. Không phải chế biến gì khác.
Thành phần hóa học
Trong hoàng đằng chủ yếu là panmatin với tỷ lệ 1 đến 3%. Ngoài ra còn có một ít jatrorrhizin, columbamin.
Theo Irokawa và cộng sự (Phytochemistry, 28, 4, 905-908, 1986) còn phát hiện 3 diterpenglycosit là tenophylloloside 3, fibleucinoside 4 và fibraurinoside 5. Trước đó một số tác giả đã phát hiện 2 diterpen khác là fibleucine 1 và fibraucine 2.
Tác dụng dược lý
Theo Phạm Duy Mai và cộng sự thì panmatin clorua chỉ có tác dụng ức chế đối với vi trùng Staphyllococ và Streptococ, còn đối với các loại vi trùng khác (lỵ, thương hàn…) thì không thấy có kết quả rõ rệt. Tác dụng ức chế vi trùng của panmatin clorua kém các loại kháng sinh thông thường (1962).
Liều độc DL-50 trên chuột nhắt trắng (tiềm mạch) là 18mg/kg thể trọng. DL-50 uống đối với chuột nhắt trắng là 577,5mg/kg. Đến năm 1968, thí nghiệm lại, Phạm Duy Mai lại thấy DL 50 uống đối với chuột nhắt trắng lên tới 1.260mg/kg.
Năm 1973, chúng tôi tìm thấy liều tác dụng trên người là 2,4-8mg/kg. Như vậy so với liều DL-50 của Phạm Duy Mai đã có mức độ an toàn từ 500 đến 1.660 lần (Đỗ Tất Lợi và cộng sự, Dược học, 3-1974).
Như vị hoàng liên: Làm thuốc chữa đau mắt, , sốt rét, lỵ, bệnh về gan, thuốc bổ đắng, chữa viêm ruột, dạ dày, ỉa chảy.
Ngày dùng 0,20 đến 0,40g làm thuốc bổ đáng, hay 2-4g dưới dạng thuốc viên, siro chữa – viêm ruột, ỉa chảy, dạ dày.
Panmatin clorua chiết từ hoàng đằng có thể dùng chữa đau mắt, ỉa chảy, lỵ. Sau công trình nghiên cứu của Đỗ Tất Lợi và cộng sự, panmatin clorua đã được Bộ y tế cho 1 sản xuất dưới dạng viên 0,02g và dạng viên 5mg để chữa lỵ, ỉa chảy cho người lớn và trẻ em.
Liều dùng của viên panmatin như sau: Người 1 lớn dùng viên 0,02g. Ngày uống từ 4 đến 10 viên. Có thể tăng liều này lên tới 20-30 viên một ngày. Trẻ em dưới 3 tuổi nên dùng viên 5mg, 1 tuổi cho uống từ 2 đến 4 viên một ngày, 2 tuổi – 3-6 viên/ngày, 3 tuổi 4-8 viên/ngày. Liều hàng ngày chia làm 2 hay 3 lần uống.
Đơn thuốc có hoàng đằng
Hoằng Đằng tán bột làm viên 0,01g
Ngày uống 10-20 viên (Nguyễn Tử Độ, 1968. Y học thực hành (154): 29).
Chữa lỵ amip và trực trùng.
Chú ý:
Tránh nhầm hoàng đằng với cây bánh nam Bowringia callicarpa thuộc họ Cánh bướm – Fabaceae (Papilionaceae).
⭐️Nhấp vào liên kết https://temu.to/k/uqlwz2gku6j để nhận gói giảm giá $ ₫1.500.000 hoặc ⭐️Tìm kiếm ach735692 trên ứng dụng Temu để nhận chiết khấu $ 30%!! |
Facebook Conversations