menu
Cây dược liệu cây Chay Bắc bộ, Chay vỏ tía - Artocarpus tonkinensis A. Chev ex Gagnep
Cây dược liệu cây Chay Bắc bộ, Chay vỏ tía - Artocarpus tonkinensis A. Chev ex Gagnep
Dịch vụ tư vấn lập dự án như Dự án trồng dược liệu quý đến các nông nghiệp, xây dựng, du lịch... Với kinh nghiệm sâu rộng, chúng tôi đảm bảo lập ra các dự án hiệu quả, bền vững, hỗ trợ từ khâu nghiên cứu, phân tích đến thực thi. Liên hệ ngay để biến ý tưởng thành hiện thực!
Theo Đông Y Quả và rễ cây chay để ăn và làm thuốc. Quả chay chín vị ngọt, hơi chua, ăn ngon và bổ. Rễ chay có phần thịt vỏ, mềm, màu nâu hồng, phần ruột màu trắng, vị chát se, hơi ngọt. Nhân dân thường dùng chay để ăn trầu, tạo vị thơm chát và tăng màu đỏ đẹp của nước trầu. Lá chay còn được dùng làm thuốc chữa tê thấp.

1. Cây Chay Bắc bộ, Chay vỏ tía - Artocarpus tonkinensis A. Chev ex Gagnep, thuộc họ Dâu tằm - Moraceae.

Cây Chay Bắc bộ, Chay vỏ tía - Artocarpus tonkinensis A. Chev ex Gagnep, thuộc họ Dâu tằm - Moraceae. Hình ảnh quả Chay Bắc Bộ xanh

Chay Bắc Bộ, còn gọi là chay vỏ tía hay chay Bắc (Tên khoa học: Artocarpus tonkinensis) là một loại cây gỗ mọc ở miền Bắc Việt Nam, nhất là các tỉnh miền núi trung du và thượng du. Ở miền xuôi cũng có trồng.

2. Thông tin mô tả cây Dược Liệu Chay Bắc bộ

Mô tả: Cây gỗ to, cao đến 15m, thân nhẵn, mọc thẳng, phân cành nhiều. Cành lá non có lông hung, sau nhẵn, vỏ màu xám. Lá mọc so le, xếp thành hai hàng, phiến có hình trái xoan hay bầu dục, dài 7-15cm, rộng 3-7cm, đầu nhọn, gốc tròn, gân nổi rõ, mặt dưới có lông ngắn màu hung. Hoa mọc đơn độc ở nách lá. Quả phức gần tròn, cuống ngắn màu vàng, thịt mềm màu hồng, vị chua. Hạt to, chứa nhiều nhựa dính.

Mùa hoa tháng 3-4, mùa quả tháng 7-9.

Bộ phận dùng: Quả, rễ - Fructus et Radix Artocarpi Tonkinensis.

Nơi sống và thu hái: Cây mọc tự nhiên ở rừng thứ sinh một số tỉnh miền Bắc (Hà Giang, Hà Bắc, Thanh Hoá, Nghệ An...) và cũng được trồng để lấy quả ăn và vỏ dùng ăn trầu. Quả và rễ cũng được dùng làm thuốc, có thể dùng tươi hoặc phơi khô dùng dần.

Thành phần hoá học: Vỏ rễ chứa nhiều tanin.

Tính vị, tác dụng: Quả chay có vị chua, tính bình, có tác dụng thu liễm, cầm máu và thanh nhiệt, khai vị giúp tiêu hoá, làm ăn ngon cơm. Rễ chay có vị chát, cũng có tác dụng làm se.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Quả chay chín có thể dùng ăn sống, nấu canh chua, có thể phơi khô cất dành để nấu canh. Người ta dùng quả chay để chữa phổi nóng, ho ra máu, thổ huyết, chảy máu mũi, đau họng, hoặc dạ dày thiếu toan, kém ăn, dùng quả chay ăn hoặc ép lấy nước uống. Nếu không có quả chay tươi thì dùng 30-60g quả chay khô hay rễ chay sắc uống. Rễ chay, chủ yếu là vỏ rễ dùng ăn với trầu cau. Thường được dùng chữa tê thấp, đau lưng, mỏi gối và chữa rong kinh, bạch đới; còn dùng làm chắc chân răng. Liều dùng 20-40g dạng thuốc sắc.

Đơn thuốc:

1. Tê thấp đau lưng, mỏi gối, dùng lá và rễ Chay 20g, Thổ phục linh 15g, Thiên niên kiện 16g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 2 lần uống trong ngày.

2. Rong kinh, bạch đới: Rễ Chay, rễ Cỏ tranh, mỗi vị 50-60g, sắc nước uống.

Ghi chú: Tuỳ theo địa phương, người ta còn dùng những loài khác để ăn trầu như Artocarpus gomezianus Wall. (A. masticata Gagnep.) cũng gọi là Chay, có lá cũng dùng chữa đau lưng mỏi gối.

3. Cây chay bắc bộ trong đời sống hàng ngày :

Có thể dùng quả chay để chế biến thành nhiều món ăn ngon miệng. Quả chay còn xanh cắt lát kho với cá, dùng trong bữa cơm hằng ngày. Quả chay cũng kho với cá đồng như cá rô, cá tràu. Cá còn tươi nguyên, làm sạch ướp hành, ớt, tiêu, chế vào ít dầu, nước mắm, bắc lên bếp kho nhỏ lửa. Khi nồi cá đang sôi, cho những lát chay vào. Món cá kho quả chay rất đậm đà, thịt cá thơm bùi, vị chua nhẹ, ăn không ngán.

Cua rạm đồng kho quả chay : Đặt một lớp lá lốt dưới đáy nồi, sắp những con cua rạm đã làm sạch lên trên, tiếp tục là một lớp quả chay cắt lát mỏng. Hành củ phi thơm rồi rưới đều nước mỡ phi hành lên trên mặt cua rạm, ướp nồi rạm thấm gia vị vừa ăn rồi kho nhỏ lửa. Đợi cua rạm khô lại và ngấm đều các loại gia vị, tỏa mùi thơm dịu ngọt là ăn được.

Những bát canh cá, canh rau nấu cùng quả chay vừa giúp giải nhiệt trong những ngày oi bức vừa khiến người ta nhớ hoài món ngon giản dị nơi miền quê. Thông thường, chờ nồi canh vừa chín tới là có thể cho những lát chay vào (chay còn tươi hoặc đã phơi khô). Đợi đến khi canh sôi trở lại trong vài phút thì nêm nếm vừa ăn rồi nhấc xuống, múc ra bát, cho chút ngò đã xắt nhỏ cùng một ít tiêu xay. Những khứa cá trắng ngà đã không còn béo đến ngậy trong tô canh nữa. Trái lại vị ngọt béo của cá hầu như đã hòa lẫn trong vị chua dịu của quả chay làm thành một món ăn hài hòa, tuyệt ngon, tạo nên sự khác biệt của tô canh vùng miền núi trung du so với những nơi khác.

4. Nghiên cứu tác dụng của Flavonoid lá chay (Artocarpus tonkinensis A - Chev)

Tên luận án: Nghiên cứu tác dụng của Flavonoid lá chay (Artocarpus tonkinensis A - Chev) trong bảo quản mô thận và ức chế phản ứng thải ghép trên thực nghiệm

Tóm tắt: Phân lập và xác định thành phần flavonoid trong lá chay ( artucarpus tonkinesisA - Chev; Moraceae ) Nghiên cứu tác dụng bảo vệ của flavonoid chiết từ lá chay đối với mô thận chuột cống trắng được bảo quản trước và trong khi ghép. Tác dụng ức chế miễn dịch

5. Tham khảo kết luận của luận án

Tham khảo kết luận của luận án

What's your reaction?

Facebook Conversations